Ảnh hưởng của luật SHTT sửa đổi 2022 tới xác lập quyền sáng chế
Luật SHTT sửa đổi 2022 vừa được quốc hội Việt Nam thông qua nhằm đáp ứng các vấn đề còn khiếm khuyết của luật Sở hữu Trí tuệ cũ, cũng như phù hợp với các FTA ký kết giữa Việt Nam và các nước như EVFTA, RCEP, CPTPP v.v., có rất nhiều điểm thay đổi mới quan trọng, tác động tới toàn bộ các thủ tục shtt, từ vấn đề xác lập quyền, tới các vấn đề về bảo hộ quyền shtt cho tới chuyển giao quyền v.v.. Một trong số đó là việc xác lập quyền đối với sáng chế với các quy định sửa đổi quan trọng như sau. Dưới đây là các tác động của sửa đổi luật IP tới việc thẩm định nội dung của đơn sáng chế.
Các tài liệu đối chứng trong quá trình xét nghiệm sáng chế.
Chúng ta đều biết trong quy trình xét nghiệm đơn thì cần tra cứu các nguồn thông tin tối thiểu như được quy định tại điều 25.5 và 25.6 của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN sửa đổi qua các năm 2010, 2011, 2013 và 2018 để làm tài liệu đối chứng xác định tính mới và trình độ sáng tạo. Điều 60 của luật Sở hữu Trí tuệ quy định các nguồn tài liệu nào sẽ được xem là nguồn thông tin để tra cứu. Tuy nhiên, ngoài các nguồn thông tin quy định tại luật Sở hữu Trí tuệ cũ, các nguồn thông tin khác cũng được bổ sung thêm vào điều 60.
Theo khoản điều 60 luật SHTT trước sửa đổi, thì sáng chế sẽ bị mất tính mới nếu bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Như vậy, tất cả các tài kỹ thuật được bộc lộ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên đều được xem là tài liệu đối chứng.
Ngoài các trường hợp nêu trên, luật SHTT sửa đổi còn bổ sung vào điều 60 trường hợp sáng chế bị mất tính mới nếu bị bộc lộ trong đơn đăng ký sáng chế khác có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn nhưng được công bố vào hoặc sau ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế đó.
Như vậy, việc sửa đổi này sẽ khiến cho trong quá trình xét nghiệm đơn sáng chế, ngoài việc tra cứu nguồn thông tin tối thiểu để tìm ra các tài liệu đối chứng, các đơn sáng chế hoặc GPHI Việt Nam có ngày ưu tiên hoặc nộp đơn trước ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn của đơn sáng chế đang xem xét cũng cần được đưa vào tài liệu đối chứng để xem xét tính mới của đơn. Tuy nhiên, nếu các đơn này chưa công bố, thì có nghĩa là chúng sẽ là các tập hợp tài liệu ẩn. Chẳng hạn, theo luật định, đơn sáng chế (không có nguồn gốc PCT) sẽ được công bố từ tháng 19 kể từ ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn. Theo quy trình xét nghiệm đơn thông thường, nếu đơn sáng chế đang xem xét có nguồn gốc đơn PCT hoặc được yêu cầu công bố sớm và có yêu cầu thẩm định nội dung sớm, thì đơn đang xem xét sẽ được công bố vào tháng thứ 2 kể từ ngày quyết định chấp nhận đơn hợp lệ, và đi vào giai đoạn xét nghiệm nội dung có thời hạn 18 tháng kể từ ngày công bố.
Tuy nhiên, nếu các đơn đối chứng ẩn nêu trên được công bố vào tháng thứ 19, tức là vào cuối giai đoạn xét nghiệm nội dung của đơn sáng chế đang xem xét, các đơn này mới được đưa vào để làm tài liệu đối chứng chính thức.
Cơ chế phản đối đơn trong giai đoạn thẩm định nội dung
Lần đầu tiên, luật Sở hữu Trí tuệ sửa đổi, ngoài cơ chế về ý kiến của người thứ ba đối với đơn đăng ký, còn bổ sung thêm cơ chế phản đối đơn đăng ký shcn (điều 112a). Theo đó, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền phản đổi việc cấp văn bằng bảo hộ co đơn đăng ký sáng chế trong thời hạn 9 tháng kể từ ngày công bố. Cơ chế phản đổi mạnh hơn cơ chế về ý kiến của người thứ ba ở chỗ, đối với ý kiến người thứ ba, Cục SHTT đơn giản chỉ coi đó là một nguồn thông tin tham khảo trong quá trình xét nghiệm đơn, còn đối với cơ chế phản đối đơn đăng ký sáng chế, Cục SHTT phải xử lý ý kiến phản đối này theo một trình tự thủ tục gần giống như cơ chế hủy văn bằng bảo hộ. Tức là, Cục phải gửi các văn bản phản đối cho chủ đơn để có ý kiến, sau đó lại gửi ý kiến của chủ đơn cho người phản đối để họ có phản hổi lại, và việc phản hồi qua lại này chỉ kết thúc khi Cục SHTT cho rằng đã có đủ thông tin để quyết định việc cấp văn bằng bảo hộ. Khi đó, Cục phải thông tin cho các bên và ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ. Trong trường hợp không đồng ý với ý kiến của Cục, người phản đối sẽ tiến hành thủ tục khiếu nại quyết định này.
Bổ sung các căn cứ từ chối cấp văn bằng bảo hộ cho sáng chế (điều 117 khoản 1a)
Theo luật cũ, các lý do từ chối cấp vb bảo hộ cho sáng chế như tại khoản 1 điều 117 cũ gồm: (i) Đối tượng xin bảo hộ không đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo hộ; (ii) Người nộp đơn không có quyền đăng ký sáng chế; (iii) Đối tượng xin bảo hộ tuy đáp ứng các điều kiện bảo hộ nhưng không phải là đơn có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất. Luật mới bổ sung thêm khoản 1a điều 117 với nhiều lý do từ chối hơn, bổ khuyết cho luật cũ gồm:
- Việc sửa đổi, bổ sung đơn làm mở rộng phạm vi đối tượng đã bộc lộ hoặc nêu trong đơn hoặc làm thay đổi bản chất của đối tượng yêu cầu đăng ký nêu trong đơn.
- Sáng chế được yêu cầu bảo hộ vượt quá phạm vi bộc lộ trong bản mô tả ban đầu của đơn đăng ký sáng chế.
- Sáng chế không được bộc lộ đầy đủ và rõ ràng trong bản mô tả sáng chế đến mức căn cứ vào đó người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện sáng chế đó.
- Đối với sáng chế được trực tiếp tạo ra dựa trên nguồn gen hoặc tri thức truyền thống về nguồn gen, đơn đăng ký sáng chế không bộc lộ hoặc bộc lộ không chính xác về nguồn gốc của nguồn gen hoặc tri thức truyền thống về nguồn gen.
- Đơn đăng ký sáng chế được nộp trái với quy định về kiểm soát an ninh đối với sáng chế trước khi nộp ra nước ngoài.
Như vậy, trong giai đoạn thẩm định nội dung của đơn sáng chế, chủ văn bằng phải đối diện với nhiều lý do từ chối hơn trước nhiều từ phía Cục SHTT.
Ngoài ra, trong trường hợp có ý kiến phản đối về kết quả thẩm định nội dung (khoản 3 điều 117), đơn sáng chế sẽ được thẩm định lại về các vấn đề bị phản đổi. Như vậy, để cơ chế phản đối này thực hiện được, Cục SHTT cần bộc lộ toàn bộ quá trình thẩm định nội dung của đơn, và công bố kết quả. Với việc thẩm định lại này, quá trình thẩm định đơn sáng chế sẽ bị kéo dài ra, nếu người phản đối muốn, trước khi văn bằng bảo hộ sáng chế được cấp.
Trên đây là các sửa đổi của luật shtt tác động tới quá trình thẩm định sáng chế. Các vấn đề về việc sử dụng các đơn sáng chế có ngày ưu tiên/nộp đơn trước và ngày công bố sau ngày ưu tiên/nộp đơn của đơn đang xem xét, trình tự thủ tục cụ thể của cơ chế phản đối đơn cũng như các căn cứ từ chối cấp vb bảo hộ sáng chế cần được cụ thể hóa bởi các thông tư của Bộ khoa học và công nghệ hướng dẫn cụ thể. Chúng tôi sẽ cập nhật các vấn đề này sớm để làm rõ hơn các vấn đề liên quan tới thẩm định đơn sáng chế.
————————————————
Luật sư SHTT Nguyễn Thanh Quang
Email: nguyenthanhquang@newsunip.com
Mobile: 0912482079